1.ĐỂ TRÁNH KHỎI BỊ HƯ MẤT
ĐỜI ĐỜI
Nhân danh Chúa Cha là Chúa
tể muôn loài muôn vật là đấng tạo dựng lên trời đất, đấng uy quyền trên con
người và vạn vật đấng ban phát mọi ơn lành là ông trời mà mọi vẫn hay gọi, xin
Ace là lương dân hãy nhắm mắt kêu (gọi) lên 3 lần rằng:
Cha Ơi, con là kẻ vô cùng tội lỗi
và bội bạc con đã xúc phạm đến Cha quá nhiều, xin Cha tha thứ mọi tội lỗi và
các lỗi lầm cho con ! " kêu 3 lần để khỏi hư mất đời đời "
nếu bây giờ mà chưa Tin
khi mà các biến cố xảy ra mà chưa từng thấy bao giờ thì hãy gọi kêu Cha ngay
các bạn nhé...!
" Trích trong thông
điệp Chúa Cha phán dậy cho Mẹ Âu Diên Nha năm 1932":
Cha ban cho các con một
điều hứa có hiệu quả muôn đời:
Hãy gọi Cha bằng danh
từ Cha với lòng Ttín cẩn và yêu mến, rồi các con sẽ nhận được từ Cha
tất cả mọi sự, với tình yêu và lòng thương xót”.
Cha lặp lại lời hứa của
Cha, một lời hứa bền vững muôn đời:
“ tất cả Những ai gọi Cha
bằng Cha, dù chỉ một lần duy nhất, sẽ không phải hư mất nhưng sẽ nắm chắc được
sự sống muôn đời cùng với cộng đoàn các thánh”
Với những con nào lao nhọc
vì danh Cha và hiến thân làm việc cho Cha được nhận biết, tôn vinh và yêu mến,
Cha bảo đảm phần thưởng các con sẽ trọng hậu, bởi vì Cha sẽ tính đến tất cả, kể
cả nỗ lực nhỏ mọn nhất của các con, và Cha sẽ ban thưởng gấp trăm cho các con
trong cõi đời đời.
Sưu Tầm :
Hòa thượng trông thấy Đức Phật bị thiêu đốt trong địa ngục...
Video tại đây: http://trenduongthienly.com/2018/01/01/mot-dai-duc-chung-kien-duc-phat-thich-ca-mau-ni-bi-thieu-dot-trong-hoa-nguc/
TU SĨ PHẬT GIÁO (Athet Pyan Shinthaw Paulu) CHẾT, ĐƯỢC SỐNG LẠI, THAY ĐỔI CUỘC SỐNG
GIỚI THIỆU
2.Hòa Thượng Trông Thấy
Đức Phật bị Thiêu Đốt Trong Hỏa Ngục
Câu chuyện sau đây là bản dịch của lời chứng được
ghi âm trên băng cassette về một người được thay đổi. Đây không phải là lời
phỏng vấn hoặc tiểu sử nhưng chỉ là lời làm chứng từ chính miệng của anh ta. Có
nhiều người phản ứng cách khác nhau khi nghe câu chuyện nầy. Một số người được
cảm động, một số nghi ngờ, một số người khác chế giễu, trong khi một số khác
đầy dẫy sự giận dữ, họ nói rằng những lời nầy là tiếng gầm thét của kẻ điên
hoặc là sự lừa dối có chi tiết. Một số Cơ đốc nhân đã chống lại câu chuyện nầy
chỉ vì những sự kiện lạ lùng mô tả ở trong đó không thích hợp với hình ảnh yếu
ớt của họ về một Đức Chúa Trời toàn năng. Một số người nói rằng vị tu sĩ trong
câu chuyện này chưa thực sự chết, nhưng bị hôn mê, và những gì anh ta thấy và
nghe là phần của cơn sốt đẩy vào ảo tưởng. Dù bạn nghĩ như thế nào, thì sự kiện
đơn giản còn lại ấy là những biến cố trong câu chuyện này đã biến đổi con người
nầy tận gốc rễ, khiến cho cuộc đời của người nầy thay đổi một góc 180 độ sau
những biến cố thuật lại dưới đây. Anh ta đã can đảm và không sợ hãi gì khi kể
lại câu chuyện của đời mình dù phải trả giá rất cao, kể cả bị tù. Anh ta đã bị
bà con, bạn hữu, đồng nghiệp khinh bỉ và đối diện với sự đe dọa giết chết nếu
không đồng ý nhượng bộ sứ điệp của anh. Động cơ nào khiến người đàn ông nầy
liều mình từ bỏ mọi sự? Dù chúng ta tin hay không, thì câu chuyện của anh cũng
đáng cho chúng ta lắng nghe và xem xét. Ở thế giới hoài nghi Phương Tây, nhiều
người đòi hỏi bằng cớ của những người như thế, bằng cớ có thể đứng vững trước
tòa án. Không nghi ngờ gì, liệu chúng ta có thể bảo đảm chắc chắn rằng tất cả
những điều nầy xảy ra không? Không, chúng ta không thể. Nhưng chúng tôi cảm thấy
rằng đáng cho chúng ta nghe câu chuyện nầy bằng tiếng nói của anh ta để độc giả
tự phán đoán.
NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA ĐỜI TÔI
Kính chào quí vị. Tôi tên
là Athet Pyan Shinthaw Paulu. Tôi ở tại đất nước Miến Điện. Tôi hân hạnh được
chia sẻ lời chứng của tôi về những gì xảy ra cho tôi, nhưng trước hết, tôi xin
vắn tắt về quảng đời thơ ấu của tôi.
Tôi sinh năm 1958 ở làng
Bogale, thuộc Bình Nguyên Irrawaddy của miền nam Miến Điện (trước kia gọi là
Burma). Cha mẹ tôi là người rất sùng kính Phật giáo giống như hầu hết những
người ở Miến Điện, đặt tên tôi là Thitpin (có nghĩa là “cây”). Cuộc sống tôi
rất đơn giản tại nơi tôi lớn lên. Đến khi được 13 tuổi, tôi nghỉ học, và bắt
đầu làm việc trên một thuyền đánh cá. Chúng tôi bắt được nhiều cá và đôi khi có
tôm ở nhiều sông ngòi và suối ở vùng Irrawaddy. Khi được 16 tuổi, tôi là trưởng
của chiếc thuyền đó. Vào lúc nầy, tôi sống ở vùng thượng lưu Mainmahlagyon
Island (Mainmahlagyon có nghĩa là “Đảo phụ nữ xinh đẹp”), chỉ ở phía bắc của
Bogale, nơi tôi được sinh ra. Vùng nầy khoảng 100 dặm về phía tây nam của
Yangon (Rangoon) thủ đô của Miến Điện.
Một ngày nọ, khi tôi 17
tuổi, chúng tôi bắt được rất nhiều cá trong lưới. Vì cớ nhiều cá nên một con cá
sấu khổng lồ tấn công chúng tôi. Nó bơi theo thuyền của chúng tôi và cố gắng
tấn công. Chúng tôi rất hoảng kinh, vì vậy chúng tôi chèo thuyền nhanh về hướng
bờ sông. Con cá sấu theo sau chúng tôi và dùng đuôi của nó đập nát thuyền. Mặc
dầu không ai bị chết trong cảnh ngộ nầy, nhưng sự tấn công đã ảnh hưởng rất lớn
trên đời sống tôi. Tôi không còn muốn đi bắt cá nữa. Chiếc thuyền nhỏ của chúng
tôi bị chìm vì cá sấu tấn công. Tối đó chúng tôi về làng nhờ chiếc thuyền khác.
Không lâu sau đó, người
chủ của cha tôi chuyển ông ta đến thành phố Yangon (Rangoon). Đến 18 tuổi, tôi
được gởi vào một tu viện Phật giáo để làm tu sĩ tập sự. Hầu hết cha mẹ ở Miến
Điện đều cố gắng gởi con trai mình vào một tu viện Phật giáo, ít ra một thời
gian, vì họ xem đó là một vinh dự lớn khi có con trai phục vụ theo cách ấy.
Chúng tôi đã giữ phong tục này hàng nhiều trăm năm nay.
MÔN ĐỆ NHIỆT THÀNH CỦA
PHẬT GIÁO
Vào năm 1977, khi tôi được
19 tuổi 3 tháng, tôi trở thành một tu sĩ thực thụ. Vị sư trưởng tu viện của tôi
cho tôi một pháp danh, đây là phong tục của nước tôi. Bây giờ tôi được gọi là U
Nata Pannita Ashinthuriya. Khi trở thành tu sĩ, chúng tôi không còn dùng tên do
cha mẹ đặt cho khi mới sanh. Tên của tu viện nơi tôi sống gọi là Mandalay
Kyaikasan Kyaing. Tên của vị sư trưởng là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (U
Zadila là tước hiệu của ông – như Hòa thượng). Ông từng là tu sĩ phật giáo nổi
tiếng nhất ở tại Miến Điện lúc bấy giờ. Mọi người đều biết ông là ai. Ông được
mọi người kính trọng và tôn ông là giáo sư vĩ đại. Năm 1983, thình lình ông qua
đời vì bị tai nạn xe. Sự qua đời của ông làm mọi người sững sốt. Lúc ấy tôi đã
làm tu sĩ được 6 năm, tôi cố sức để trở thành tu sĩ giỏi nhất và tuân theo mọi
giới luật của Phật giáo. Đến một giai đoạn tôi đi vào nghĩa trang gần chỗ tôi
sống và suy tư liên tục. Vài tu sĩ thật sự muốn biết những chân lý về đức Phật
cũng làm giống như tôi làm. Một số người đi sâu vào rừng để họ sống một cuộc
đời từ bỏ chính mình và nghèo khổ. Tôi tìm cách để từ bỏ những tư tưởng ích kỷ,
và dục vọng, để trốn thoát khỏi bệnh tật và đau khổ và muốn phá vỡ vòng luân
hồi của trần gian nầy. Tôi cố đạt cho được sự bình an trong tâm hồn và tự ý
thức, thậm chí khi một con muỗi sà vào cắn, tôi cứ để nó hút máu mà không đập
nó!
Trãi qua nhiều năm tôi
phấn đấu để trở thành tu sĩ tốt nhất và không làm hại bất kỳ sinh vật nào. Tôi
học tập những sự dạy dỗ thánh của Phật giáo như tổ tiên đã làm trước tôi. Cuộc
đời làm tu sĩ của tôi cứ tiến lên cho đến một ngày tôi bị đau rất nặng. Tôi ở
Mandalay vào thời điểm đó và được đưa đến bệnh viện để chữa trị. Bác sĩ đã làm
một số xét nghiệm trên tôi và cho tôi biết là tôi bị sốt vàng và sốt rét cùng
một lúc! Sau một tháng ở bệnh viện, sức khỏe của tôi tệ hại hơn. Các bác sĩ bảo
rằng không còn cơ hội cho tôi được phục hồi và họ cho tôi xuất viện để về nhà
chờ chết.
Đây là phần mô tả vắn tắt
về quá khứ của tôi. Bây giờ tôi muốn kể cho quí vị nghe những điều đáng lưu ý
xảy ra cho tôi sau thời điểm đó….
Một Khải Tượng Làm Thay
Đổi Cuộc Đời Tôi Vĩnh Viễn
Sau khi xuất viện, tôi trở
lại tu viện, tại đấy các tu sĩ khác chăm sóc cho tôi. Tôi càng ngày càng yếu
hơn và bị hôn mê. Về sau tôi được người ta cho biết rằng tôi đã chết ba ngày.
Thân thể tôi bị thối và tim tôi đã ngừng đập. Người ta chuẩn bị liệm và đưa qua
nghi lễ tẩy uế truyền thống của Phật giáo. Dù thân thể tôi bị hủy hoại, nhưng
tôi nhớ rằng tâm trí và tâm linh của tôi lại rất nhạy bén. Tôi đang ở trong một
trận bão rất lớn. Cơn gió rất mạnh san bằng toàn thể cảnh vật cho đến khi không
còn một cây hoặc bất kỳ thứ gì còn lại, ngoài một khoảnh đất trống trơn. Tôi đi
nhanh qua bình nguyên nầy một lúc. Chẳng còn ai cả, chỉ một mình tôi đi. Sau
một lúc tôi băng qua một con sông. Bên kia bờ sông, tôi thấy một hồ lửa rất
khủng khiếp, khủng khiếp lắm. trong Phật giáo, chúng tôi không có ý niệm về một
nơi giống như vậy. Ban đầu tôi rối trí và không biết đó là địa ngục cho đến khi
tôi nhìn thấy Yama, vua của địa ngục (Yama là tên đặt cho vua của địa ngục
trong nhiều nền văn hóa Á châu). Mặt của vua này giống như mặt sư tử, nhưng
chân của nó giống như chân của rắn. Nó có một số sừng. mặt nó dữ tợn và tôi rất
sợ hãi. Run rẩy, tôi hỏi tên của nó. Nó trả lời, “Ta là vua của địa ngục, Kẻ
hủy diệt”
Hồ Lửa rất Khủng
Khiếp
Vua của địa ngục bảo tôi
nhìn vào hồ lửa. Tôi nhìn và thấy chiếc áo choàng màu của tu sĩ Phật giáo Miến
Điện. Tôi nhìn kỹ hơn và thấy đầu trọc của một người đàn ông. Khi tôi nhìn vào
mặt ông ta, tôi nhận ra đó là U Zadila Kyar Ni Kan Sayadaw (Vị tu sĩ nổi tiếng
đã chết trong tai nạn xe hơi năm 1983). Tôi hỏi vua địa ngục vì sao người lãnh
đạo trước kia của tôi lại bị giam trong hồ tra tấn nầy. Tôi nói, “Tại sao ông
ta ở trong hồ lửa nầy? Ông ta là giáo sư lỗi lạc. Thậm chí ông ta đã có một
cuộn băng gọi là “Bạn là con người hay một con chó?” giúp cho hàng ngàn người
hiểu rằng, là người, họ có giá trị rất lớn so với súc vật. Vua của địa ngục trả
lời, “Đúng, ông ta là một giáo sư lỗi lạc, nhưng ông ta không tin Jêsus Christ.
Đó là lý do ông ta ở trong địa ngục”.
Rồi vua địa ngục bảo tôi
nhìn vào một người khác ở trong hồ lửa. Tôi nhìn thấy một người tóc rất dài vắt
ngang qua bên trái đầu của ông ta. Ông ta cũng mặc áo choàng dài. Tôi hỏi vua
địa ngục, “Ông nầy là ai?” Nó trả lời, “Đây là người mà ngươi thờ kính: Gautama
(Phật Thích Ca). Tôi kinh hoàng nhìn thấy Gautama ở địa ngục. Tôi cãi lại,
“Gautama là người rất đạo đức, rất tốt, tại sao ông ta lại chịu khốn khổ ở hồ
lửa?” Vua địa ngục trả lời, “Cho dù ông ta đạo đức đến đâu, nếu ông ta không
tin nơi Đức Chúa Trời đời đời, thì ông ta vẫn ở nơi nầy”.
Sau đó tôi thấy một người
khác, giống như mặc bộ đồ quân phục. Ông ta có một vết thương lớn ở ngực. Tôi
hỏi, “Ông nầy là ai?”
Vua địa ngục bảo, “Đây là
Aung San, lãnh tụ cách mạng của Miến Điện. Aung San ở đây vì ông ta ngược đãi
và giết nhiều Cơ đốc nhân, nhưng chính là vì ông ta đã không tin nơi Jêsus
Christ”. Ở Miến Điện, người ta thường có câu tục ngữ, “Người lính chẳng bao giờ
chết, họ cứ sống mãi”. Vua địa ngục nói với tôi rằng những quân đoàn của địa
ngục đã có câu tục ngữ, “Những người lính chẳng bao giờ chết, nhưng họ đi xuống
địa ngục đến đời đời”.
Tôi nhìn xem thấy một
người khác ở trong hồ lửa. Ông ta rất to lớn và mặc đồ chiến. Ông ta cũng cầm
một thanh gươm và một cái khiên. Người nầy có một vết thương ở trên trán. Người
nầy cao lớn hơn bất kỳ người bình thường nào mà tôi từng thấy. Chiều cao của
ông ta bằng sáu lần chiều dài từ cùi chỏ của người nam đo ra chót ngón tay khi
duỗi thẳng ra cộng với một gang tay. Vua địa ngục nói, “Người nầy tên là
Gô-li-át. Hắn ta ở địa ngục vì hắn phỉ báng Đức Chúa Trời đời đời và tôi tớ
Ngài là Đa-vít”. Tôi bối rối vì tôi không biết Gô-li-át và Đa-vít là ai cả. Vua
địa ngục nói, “Gô-li-át được ghi lại trong Kinh thánh Cơ-đốc. Bây giờ ngươi
không biết, nhưng khi ngươi trở thành Cơ đốc nhân, ngươi sẽ biết hắn là ai”.
Sau đó tôi được đưa đến
một nơi tôi thấy cả người giàu và nghèo lo chuẩn bị bữa ăn tối. Tôi hỏi, “Ai
nấu thức ăn cho những người nầy?” Vua địa ngục trả lời, “Người nghèo thì tự họ
nấu ăn, còn người giàu thì nhờ người khác nấu cho họ”. Khi thức ăn được chuẩn
bị xong, người giàu ngồi xuống ăn. Khi họ bắt đầu ăn thì khói mù mịt bay lên.
Người giàu ăn lấy ăn để để làm dịu lương tâm của họ. Họ phải thở khó khăn lắm
vì khói. Họ phải ăn nhanh vì họ sợ mất tiền. Tiền bạc là thần của họ.
Một vua khác của địa ngục
đến gần tôi. Tôi cũng thấy một con vật có công tác cho than vào lửa bên dưới hồ
lửa để làm cho nó nóng thêm. Con vật nầy hỏi tôi, “Mầy cũng muốn đi vào hồ lửa
nầy phải không?” Tôi trả lời, “Không, tôi đến đây để quan sát thôi”. Vẻ mặt của
con vật khều lửa nầy rất dữ tợn. Nó có mười cái sừng trên đầu, một cây giáo
trên tay và bảy lưỡi dao bén nhọn từ đầu cây giáo. Con vật này nói với tôi,
“Mầy nói đúng. Mầy đến đây chỉ để quan sát thôi. Ta không tìm thấy tên mầy ở
đây”.
Nó nói, “Bây giờ ngươi trở
về nơi trước khi ngươi đến đây”. Nó chỉ cho tôi về hướng đồng bằng hoang vu mà
tôi đã đi qua trước khi tôi đến hồ lửa nầy”.
Con Đường Quyết Định
Tôi đi bộ rất xa, cho đến
khi chân tôi chảy máu. Tôi bị nóng và đau đớn dữ dội. Cuối cùng khi tôi đi bộ khoảng
ba giờ, tôi đến một con đường rộng. Tôi đi trên đường rộng nầy một lúc cho đến
một ngã ba. Một nhánh đi về phía trái, rất rộng. Một nhánh nhỏ hơn đi về phía
bên phải. Ở chỗ ngã ba có một bảng hiệu nói rằng con đường bên trái dành cho
những người không tin nơi Chúa Jêsus Christ. Con đường bên phải dành cho những
người tin nơi Chúa Jêsus. Tôi muốn biết con đường rộng dẫn đến đâu, nên tôi bắt
đầu đi. Có hai người đàn ông đi trước tôi 300 thước. Tôi cố gắng đi nhanh để
bắt kịp họ, nhưng dù tôi rán sức đến đâu cũng không theo kịp, do đó tôi quay
lại ngã ba. Tôi tiếp tục nhìn hai người đàn ông đó khi họ đi xa khỏi tôi. Lúc
họ đến cuối con đường thì thình lình họ rơi xuống. Hai người đàn ông nầy hét
lên khủng khiếp! Tôi cũng hét lên khi thấy những gì xảy ra cho họ! Tôi biết
rằng con đường rộng chấm dứt trong sự nguy hiểm kinh khủng cho ai đi trên đó.
Nhìn Lên Thiên Đàng
Tôi bước đi trên con đường
của những người tin theo Chúa Jêsus. Sau khi đi khoảng một giờ thì mặt đường
đổi thành vàng ròng. Nó trong suốt đến nỗi khi tôi nhìn xuống thì thấy mặt tôi
rõ ràng. Sau đó tôi thấy một người đàn ông đứng trước mặt tôi. Ông ta mặc chiếc
áo choàng trắng. Tôi cũng nghe người ta hát rất hay. Ồ, quá tuyệt vời và tinh
khiết! Rất có ý nghĩa và hay hơn rất nhiều so với những buổi thờ phượng trong
những nhà thờ ngày nay trên đất nầy. Người đàn ông mặc áo trắng bảo tôi cùng đi
với ông. Tôi hỏi ông tên gì, nhưng ông ta không trả lời. Sau khi tôi hỏi tên
ông đến sáu lần, thì ông ta trả lời, “Ta là người giữ chìa khóa của thiên đàng.
Thiên đàng là nơi rất đẹp, rất tuyệt vời. Bây giờ ngươi không thể vào đây,
nhưng nếu ngươi đi theo Jêsus Christ thì ngươi có thể vào sau khi cuộc sống
trên đất của ngươi chấm dứt”. Tên của người đàn ông ấy là Phi-e-rơ.( phê rô )
Phi-e-rơ bảo tôi ngồi xuống
và ông ta chỉ cho tôi thấy một chỗ ở phía bắc. Ông nói, “Nhìn về hướng bắc và
nhìn thấy Đức Chúa Trời tạo dựng một người đàn ông. Đức Chúa Trời phán với một
thiên sứ, “Chúng ta hãy dựng nên một người đàn ông”. Thiên sứ năn nỉ với Đức
Chúa Trời và nói, “Xin Ngài đừng dựng nên người đàn ông. Người ấy sẽ làm điều
sai trái và làm Ngài buồn lòng”. (Nghĩa đen theo tiếng Miến Điện là người ấy sẽ
làm Ngài mất mặt). Nhưng dù sao Đức Chúa Trời vẫn tạo dựng một người đàn ông.
Ngài đặt tên người ấy là “A-đam”
Ghi chú:
Những người Phật giáo
không tin nơi sự tạo dựng của thế giới hay của con người, vì vậy kinh nghiệm đó
gây tác động có ý nghĩa trên tu sĩ nầy).
Sai Trở Về Qủa Đất Với Tên
Mới
Sau đó Phi-e-rơ (phê rô)
nói, “Bây giờ hãy đứng dậy và trở lại chỗ trước khi ngươi đến đây. Hãy nói với
những người thờ phượng Phật Thích Ca và những người thờ lạy hình tượng. Nói với
họ rằng họ phải đến địa ngục nếu họ không thay đổi. Những người xây dựng chùa
và thần tượng cũng sẽ đi địa ngục. Những người cúng tiền cho các tu sĩ để lấy
công quả cũng sẽ đi xuống địa ngục. Tất cả những người cầu nguyện với các tu sĩ
và gọi họ bằng “Pra” (tước hiệu tôn kính đối với tu sĩ) sẽ xuống địa ngục. Tất
cả những người cầu kinh và “ban sự sống” cho hình tượng sẽ xuống địa ngục. Tất
cả những người không tin Jêsus Christ sẽ xuống địa ngục”. Phi-e-rơ (phê rô )bảo
tôi quay về trái đất và làm chứng về những gì tôi đã thấy. Ông cũng nói, “Ngươi
phải nói bằng tên mới của ngươi. Từ bây giờ trở đi, ngươi sẽ được gọi là Athet
Pyan Shinthaw Paulu (Phao-lô trở lại cuộc sống).
Tôi không muốn quay lại
quả đất. Tôi muốn đi thiên đàng. Các thiên sứ mở ra một cuốn sách. Trước hết họ
tìm tên hồi nhỏ của tôi (Thitpin) trong sách, nhưng họ không thể tìm được. Rồi
họ tìm tên mà tu viện đặt cho tôi khi làm tu sĩ Phật giáo (U Nata Pannita
Ashinthuriya), nhưng họ cũng không thấy. Rồi Phi-e-rơ bảo, “Tên của ngươi chưa
được viết vào đây, ngươi phải trở về trần gian và làm chứng về Chúa Jêsus cho
những người theo Phật giáo”.
Tôi trở lại con đường bằng
vàng. Một lần nữa tôi được nghe hát rất hay, loại nhạc mà tôi chưa được nghe
trước đây. Phi-e-rơ cùng đi với tôi cho đến giờ tôi phải quay về quả đất. Ông
ấy chỉ cho tôi một cái thang từ trời xuống bầu trời. Cái thang nầy không chạm
đến quả đất, nhưng dừng lại ở giữa chừng bầu khí quyển. Trên cái thang nầy tôi
thấy rất nhiều thiên sứ, một số đi lên trời, một số đi xuống. Họ rất bận rộn.
Tôi hỏi Phi-e-rơ, “Họ là ai?” Phi-e-rơ trả lời, “Họ là những sứ giả của Đức
Chúa Trời. Họ đang trình lên thiên đàng tên của những người đã tin nơi Jêsus
Christ và tên của những người không tin Jêsus Christ. Sau đó Phi-e-rơ bảo tôi
đến lúc tôi phải trở về.
Con Ma!
Điều kế tiếp mà tôi nhận
ra là tiếng khóc. Tôi nghe mẹ tôi khóc lớn, “Con trai ơi, con ơi, sao con bỏ
cha mẹ lại đây?” Tôi cũng nghe nhiều người khóc. Tôi nhận thấy mình đang nằm
trong một chiếc quan tài. Tôi bắt đầu cử động. Cha mẹ tôi bắt đầu la lớn, “Nó
sống rồi! Nó sống rồi!” Những người khác đứng xa hơn không tin cha mẹ tôi. Sau
đó, tôi chống tay trên thành quan tài và ngồi thẳng dậy. Nhiều người sững sốt,
kinh khiếp. Họ la lên, “Con ma! Con ma!” và chạy bán sống bán chết.
Những người còn lại chết
điếng và run rẩy. Tôi nhận ra mình đang ngồi trên đống nước nhờn và thối, là
chất nước trong thân thể chảy ra, chắc được ba tách rưỡi nước nhờn. Đó là loại
nước từ bao tử và những bộ phận bên trong của tôi chảy ra khi tôi nằm trong
quan tài. Đây là lý do người ta biết rằng tôi thực sự chết rồi. Bên trong quan
tài có một loại giấy ni-lông dán chặt vào lớp gỗ. Lớp ni-lông nầy giữ cho nước
thối của tử thi không chảy ra, vì rất nhiều người chết chảy ra nhiều nước giống
như vậy.
Về sau tôi biết rằng chỉ
vài phút sau là người ta đem xác tôi đi thiêu. Tại Miến Điện, người chết được
đặt trong quan tài, họ đóng nắp hòm lại, rồi thiêu cả quan tài. Cha mẹ tôi được
phép nhìn mặt tôi lần cuối trước khi đóng nắp quan tài, đó là lúc tôi được sống
lại. Nếu không sống lại, thì sau đó vài phút, người ta sẽ đóng nắp quan tài và
thi thể tôi sẽ bị thiêu.
Lập tức tôi bắt đầu giải
thích những gì tôi đã thấy và nghe. Người ta rất kinh ngạc. Tôi đã nói với họ
về những người tôi đã thấy trong hồ lửa, và bảo họ rằng chỉ có Cơ đốc nhân mới
biết chân lý, rằng tổ phụ của họ và của chúng tôi đã bị lừa dối hàng ngàn năm
nay. Tôi nói với họ rằng mọi điều chúng ta tin đều là giả dối cả. Người ta rất
kinh ngạc vì họ biết tôi thuộc về loại tu sĩ nào và tôi đã nhiệt thành với sự
dạy dỗ của Phật Thích Ca như thế nào.
Ở Miến Điện, khi một người
chết, tên và tuổi được viết bên cạnh quan tài. Khi một tu sĩ chết, thì tên của
thầy tu, tuổi và số năm phục vụ làm tu sĩ được viết bên cạnh quan tài. Tôi đã
được người ta ghi rằng tôi chết, nhưng bây giờ quí vị có thể nhìn thấy tôi đang
sống!
LỜI KẾT
Vì “Phao-lô Trở Lại Cuộc
Sống” kinh nghiệm câu chuyện nói trên, nên anh cứ tiếp tục làm chứng về Chúa
Jêsus Christ. Các mục sư Miến Điện nói với chúng tôi rằng anh đã dẫn đưa hàng
trăm tu sĩ Phật giáo đến với Chúa Jêsus. Lời chứng của anh rõ ràng là không
nhượng bộ. Vì thế, sứ điệp của anh đã làm xúc phạm nhiều người, là những người
không chấp nhận Jêsus Christ là Con Đường Duy Nhất đến thiên
đàng. Dù bị chống đối dữ tợn, nhưng những kinh nghiệm của anh quá thật đối với
anh, nên anh không hề lay chuyển. Sau nhiều năm là tu sĩ Phật giáo, một người
nghiêm túc tuân theo sự dạy dỗ của Phật Thích Ca, bây giờ anh lập tức công bố
phúc âm của Đức Chúa Trời sau khi anh được sống lại và khuyên những tu sĩ khác
từ bỏ tất cả những hình tượng giả dối và hết lòng theo Đức Chúa Jêsus Christ.
Trước thời gian anh bị bệnh và chết, không có biểu hiện nào cho thấy anh biết
gì về Cơ-đốc giáo. Mọi việc anh học trong ba ngày nằm trong quan tài đã rất mới
đối với anh.
Trong nổ lực đưa sứ điệp
của anh đến càng nhiều càng tốt, La-xa-rơ hiện đại nầy bắt đầu phân phát băng
video và băng cassette về câu chuyện của anh. Cảnh sát và nhà cầm quyền Phật
giáo tại Miến Điện đã làm hết sức mình để thu lại những băng cassette nầy và
tiêu hủy. Lời chứng mà quí vị đọc được ở đây đã được dịch từ một trong những
cuộn băng đó. Chúng tôi được biết rằng hiện nay nếu công dân Miến Điện nào có
những băng này thì rất nguy hiểm cho họ.
Lời chứng không sợ hãi của
anh đã đưa anh vào tù ít nhất một lần, khi nhà cầm quyền không thể làm cho anh
câm miệng. Khi anh được thả ra, anh tiếp tục làm chứng về những điều anh đã
thấy và nghe. Hiện nay anh ở đâu, chúng tôi không được biết. Một nguồn thông
tin của Miến Điện cho biết anh ta có thể bị tù hay bị giết rồi, trong khi một
nguồn tin khác lại nói, anh đã được trả tự do và tiếp tục công việc anh được
giao phó.......!
CHÍNH THẦY LÀ CON
ĐƯỜNG, LÀ SỰ THẬT VÀ LÀ
SỰ SỐNG
(Ga 14, 1-6)
|
Thưa Thầy, cảm ơn
Thầy luôn hiểu tâm lý chúng con mọi lúc mọi nơi. Làm sao chúng con
không xao xuyến cho
được khi nghe Thầy nói bao điều Thầy phải chịu. Dù Thầy biết
trước hết mọi
sự sẽ xảy ra đối với Thầy và Thầy nói với chúng con trước khi
những
sự việc xảy ra để khi
sự việc xảy ra chúng con không thất vọng, không nao núng. Nhưng
dường như Thầy càng
nói chúng con càng hoang mang hơn bởi vì trong cơn nguy khó của
Thầy chúng con
sẽ mất Thầy. Chúng con nghe Thầy nói Thầy phải ra đi để dọn chỗ
cho
chúng con ở nhà Cha
Thầy nhưng thực tình chúng con đâu biết Thầy đi đâu vì chúng
con cũng chẳng biết
nhà Cha Thầy ở đâu, nên anh Tô-ma mới hỏi Thầy như thế.
|
“Chính Thầy là
đường, là sự thật và là sự sống.” Thầy là đường và đường đó dẫn
đến Chúa Cha, dẫn
đến nhà Cha Thầy. Chúng con muốn đi bất cứ đâu cũng cần phải
có đường, đi bằng
phương tiện nào thì cũng phải có đường dành riêng cho phương tiện
đấy và nếu chúng con
muốn đến nhà của Cha Thầy thì chỉ có một con đường và
cũng
chỉ một phương tiện
duy nhất đó chính là con đường mang tên Thầy và phương tiện
duy nhất cũng
là sự sống của Thầy. Là con đường thì đưa hành khách đến nhiều
nơi, nên chúng có
nhiều ngã rẽ khác nhau nhưng con đường mang tên Thầy dường như
chỉ có một đường
xuyên suốt, sự xuyên suốt ấy chính là Sự Thật.
|
Thầy đã đến để
hướng dẫn cho chúng con sơ đồ đường về nhà Cha đó chính là bản
hiến chương Nước
Trời. Thầy không chỉ hướng dẫn chúng con mà Thầy còn đồng
hành với chúng con,
dẫn đường cho chúng con như người hướng dẫn viên du lịch.
Thầy nói cho chúng
con hết những gì Thầy nghe Chúa truyền. Thầy làm hết những gì
Thầy thấy Chúa Cha
làm. Thầy tỏ cho chúng con biết Chúa Cha là Đấng nào, Ngài yêu
thương chúng con
ra sao và Ngài muốn thông ban chúng con sức sống của Ngài
thế
nào. Bao nhiêu sự
thật về Chúa Cha, Thầy đều tỏ cho chúng con biết để khơi lên trong
chúng con lòng tin
tưởng và lòng yêu mến Cha Thầy cũng như yêu mến Thầy.
|
Thầy đến trần gian
đến một chỗ tựa đầu cũng không có thế nhưng trong nhà Cha Thầy
thì lại có rất
nhiều chỗ ở. Nhưng chỗ ở đó Thầy cần phải đi dọn sẵn cho chúng
con rồi mới
trở lại đón chúng
con về với Thầy để Thầy ở đâu thì chúng con cũng ở đó với Thầy.
Thưa
Thầy, Thầy luôn ở
giữa chúng con như một người mẹ phục vụ chúng con là những đứa con
thơ. Thầy vừa
rửa chân cho chúng con và bây giờ lại đi dọn chỗ cho chúng con. Tại
sao lại
phải đích thân
Thầy đi mà không phái ai dọn giúp Thầy. Con suy ra rằng
vì chẳng có ai
đã lên trời và chẳng
ai từ trời mà xuống như Thầy để biết nhà Cha Thầy ở đâu mà cũng
chẳng biết dọn thế
nào cho thích hợp với tất cả chúng con. Chính Thầy đã
ở trong cung
lòng của Chúa Cha nên
Thầy biết chính xác nhà Cha ở đâu và chỉ Thầy biết dọn
thế
nào để chúng con cảm
thấy ấm cúng và hạnh phúc nhất.
|
Cảm ơn Thầy lúc nào
cũng nghĩ cho chúng con trước khi nghĩ cho chính mình. Thầy
lúc nào cũng muốn ở
với chúng con, cho dù để làm điều ấy Thầy phải trả một cái giá
quá đắt nhưng dường
như Thầy không quan tâm, miễn sao chúng con được ở với Thầy
. Điều Thầy quan tâm
là chúng con được Sự Thật mà Thầy đem đến giải thoát chúng
con khỏi nô lệ tội
lỗi và sự chết; chúng con được sống dồi dào bằng chính sự sống
của
Thầy.
Phúc Âm: Ga 11,
1-45. Chúa Giêsu nói:
"Ta là sự sống lại
và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống.
Và kẻ nào sống mà tin
Ta, sẽ không chết bao giờ "Ta là sự sống lại và là sự
sống".
|
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô
theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có một người đau
liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính
là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là
Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy
Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo:
"Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó
Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển".
Chúa Giêsu thương Martha
và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó
hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa". Môn
đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại
trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ
sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời;
nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi
lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức
ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại".
Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về
giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng
cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến
nhà ông". Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn:
"Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người".
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy
Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười
lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người
em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi
nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con
không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa,
Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống
lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì
em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự
sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ
không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy,
vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế
gian".
Nói xong bà về gọi Maria
em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em".
Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu
chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người
Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra
đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến
chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói:
"Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà
khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và
xúc động. Người hỏi: "Ðã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa
Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói:
"Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám
nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho
người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là
một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá
ra". Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì
đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con
tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta
cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha
đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những
người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người
kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay
còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi
ra cho anh ấy đi".
Một số người Do-thái đến
thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào
Người.
Ðó là lời Chúa....lạy Chúa
kito nghợi khen Chúa....
Lời
Chúa: Ga 14,6-14
Đức Giê-su đáp:
"Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa
Cha mà không qua Thầy. 7Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết
Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người." 8Ông
Phi-líp-phê nói: "Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế
là chúng con mãn nguyện." 9Đức Giê-su trả lời: "Thầy
ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Phi-líp-phê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy
Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa
Cha"? 10Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa
Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra.
Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của
mình. 11Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha
ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm. 12Thật,
Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc
Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa
Cha. 13Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy
sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con. 14Nếu anh em
nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.
Chính Thầy là con đường,
là sự thật và là sự sống (Ga 14,6)
25 nhà khoa học lừng danh nói về Thiên Chúa
Thứ ba - 07/02/2017 14:07
Dù ai nói rằng khoa học và
tôn giáo không hòa hợp với nhau nhưng những người đoạt giải Nobel và các nhà
khoa học này thì không.
25 nhà khoa học lừng danh
nói về Thiên Chúa
Johannes
Kepler (1571–1630), Một trong những nhà thiên văn vĩ đại nhất:
"Thiên Chúa thật vĩ
đại. Quyền năng Ngài vĩ đại và sự khôn ngoan thì vô hạn. Hãy ca tụng Ngài bằng
ngôn ngữ của mình, hỡi trời và đất, mặt trời và mặt trăng, các tinh tú. Lạy
Thiên Chúa và là Đấng Tạo Dựng nên con! Với trí khôn giới hạn của con, con muốn
loan báo sự kỳ diệu của các công trình Ngài cho mọi người hiểu được”
Nicolaus Copernicus
(1473–1543), nhà thiên văn học và là người đề xuất thuyết nhật tâm
(heliocentrism):
"Ai có thể sống cận
kề với một trật tự hoàn bị nhất và trí năng siêu vượt của Thiên Chúa mà không
cảm thấy dâng trào những cảm hứng cao quý? Nào ai không thán phục vị kiến trúc
sư của tất cả các công trình này?”
Isaac Newton (1643–1727),
nhà sáng lập vật lý lý thuyết cổ điển:
"Điều ta biết được
chỉ là một giọt nước, điều ta chưa biết là cả một đại dương bao la. Những xếp
đặt và hài hòa của vũ trụ chỉ có thể xuất phát từ bản vẽ của một Đấng toàn năng
và toàn tri”
Carl Linnaeus (1707–1778),
nhà sáng lập môn thực vật học hệ thống:
"Tôi đã thấy Thiên
Chúa toàn năng, vô hạn và vĩnh cửu đi ngang qua rất gần, và tôi quỳ xuống bái
lạy Ngài”
Alessandro Volta
(1745–1827), người khám phá ra các ý niệm cơ bản về điện:
"Tôi tuyên xưng đức
tin Công giáo Roma, thánh thiện và tông truyền. Tôi tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho
tôi đức tin này, nhờ đó mà tôi có một ý hướng vững chắc để sống và chết”
Andre-Marie Ampere
(1775–1836), người khám phá ra các định luật cơ bản về điện:
"Thiên Chúa vĩ đại
biết bao và khoa học của chúng ta chỉ là chuyện vặt vãnh!”
Augustin Louis Cauchy
(1789–1857), nhà toán học kiệt xuất và nhà sáng lập môn Toán phân tích phức tạp
(complex analysis):
"Tôi là Kitô hữu, có
nghĩa là tôi tin vào thần tính của Đức Kitô, giống như tất cả các nhà thiên văn
vĩ đại khác cũng như các nhà toán học lớn trong quá khứ”
Carl Friedrich Gauss
(1777-1855), được cho là “Ông hoàng của các nhà toán học” vì đã đóng góp nhiều
vào lãnh vực toán học và khoa học:
"Khi giờ cuối cùng đã
điểm, chúng ta vui sướng hân hoan vì sẽ nhìn thấy Đấng mà chúng ta chỉ có thể
thấy lờ mờ trong tất cả những khám phá của chúng ta”
Justus von Liebig
(1803–1873), nhà hóa học lừng danh:
"Sự vĩ đại và trí
khôn vô tận của Đấng Tạo Hóa sẽ chỉ được nhận thấy bởi những người cố công rút
ra những ý tưởng của mình từ cuốn sách vĩ đại mà chúng ta gọi là thiên nhiên”
Robert Mayer (1814–1878),
nhà khoa học tự nhiên (Định luật bảo tồn năng lượng):
"Tôi đang dần kết
thúc cuộc đời mình với sự quả quyết rằng: khoa học thật sự và triết học thật sự
không là gì khác ngoài là môn dẫn nhập cho Kitô giáo”
Angelo Secchi (1803–1895),
nhà thiên văn học lừng danh:
"Từ chiêm ngưỡng đất
trời đến Thiên Chúa chỉ là một khoảng cách ngắn”
Charles Darwin
(1809–1882), Thuyết tiến hóa:
"Tôi không bao giờ từ
chối sự hiện hữu của Thiên Chúa. Tôi nghĩ thuyết tiến hóa phù hợp với niềm tin
vào Thiên Chúa. Tôi cho rằng bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự hiện hữu của Thiên
Chúa đó là ta không thể giải thích hay hiểu được vũ trụ mênh mông vượt xa mọi
phép tính toán và không thể giải thích được rằng con người là kết quả của ngẫu
nhiên”
Thomas A. Edison
(1847–1931), nhà sáng chế nắm giữ 1200 bằng sáng chế:
"Tôi tôn trọng và
ngưỡng mộ tất cả các kỹ sư, đặc biệt là người kỹ sư vĩ đại nhất: Thiên Chúa”
Carl Ludwig Schleich
(1859–1922), nhà phẫu thuật nổi tiếng, người tiên phong của phương
pháp gây tê tại chỗ (local anesthesia):
"Tôi trở thành tín
hữu qua kính hiển vi và quan sát thiên nhiên, và tôi muốn đóng góp theo khả
năng mình vào sự hòa hợp giữa khoa học và tôn giáo”
Guglielmo Marconi
(1874–1937), nhà sáng chế vô tuyến điện thoại, giải Nobel 1909:
"Tôi hãnh diện tuyên
xưng rằng mình là một tín hữu. Tôi tin vào quyền năng của sự cầu nguyện, và tôi
tin không chỉ như là người Công giáo mà còn là một nhà khoa học”
Robert Millikan
(1868–1953), Nhà vật lý Hoa Kỳ, giải Nobel 1923:
"Tôi có thể khẳng
định rằng việc từ chối đức tin là thiếu nền tảng khoa học. Theo quan điểm của
tôi, không có bất kỳ sự mâu thuẫn nào giữa đức tin và khoa học”
Arthur Eddingtong
(1882–1946), Nhà thiên văn học người Anh, nhà toán học và vật lý thiên thể:
"Trong số những người
sáng tạo nên thuyết vô thần thì không có ai là nhà tự nhiên học. Tất cả họ đều
là những triết gia tồi”
Albert Einstein
(1879–1955), người đặt nền cho vật lý hiện đại (Thuyết tương đối), giải Nobel
1921:
"Những ai nghiêm túc
nghiên cứu khoa học đều chắc một điều là trong tất cả những định luật của vũ
trụ đều có bóng dáng của một thần linh siêu vượt lên trên con người và chúng ta
phải cảm thấy mình thật thấp kém”
Max Planck (1858–1947),
người sáng tạo nên vật lý lượng tử (quantum physics), giải Nobel 1918:
"Do xung lượng của
kiến thức đòi hỏi, không gì ngăn cản chúng ta liên kết trật tự của vũ trụ với
Thiên Chúa của tôn giáo. Đối với người tin, Thiên Chúa đứng ở đầu câu chuyện;
đối với nhà vật lý, Thiên chúa ở cuối câu chuyện”
Erwin Schrödinger
(1887–1961), người khám phá ra cơ học sóng (wave mechanics), giải Nobel 1933:
"Kiệt tác tinh vi
nhất là tác phẩm của Thiên Chúa, theo các nguyên tắc cơ học lượng tử (quantum
mechanics)…"
Howard H. Aiken
(1900-1973), người tiên phong trong lãnh vực máy tính:
"Vật lý hiện đại dạy
tôi rằng thiên nhiên không thể tự xếp đặt mình theo trật tự. Vũ trụ là một khối
trật tự khổng lồ. Vì vậy, nó đòi hỏi một “Nguyên Nhân Đầu Tiên” thật vĩ đại và
không phụ thuộc vào đinh luật biến đổi năng lượng hai và vì thế đó là Đấng Siêu
Nhiên”
Wernher von Braun
(1912–1977), kỹ sư tên lửa và kiến trúc sư không gian:
"Trên hết mọi sự là
vinh quang Thiên Chúa, Đấng mà con người và khoa học khám phá và tìm kiếm mỗi
ngày với sự tôn kính thẳm sâu”
Charles Townes (1915), Nhà
vật lý cùng nhận giải Nobel 1964 Nobel vì đã khám phá ra các nguyên tắc của tia
laser:
"Là người có tôn
giáo, tôi cảm thấy được sự hiện diện và can thiệp của Đấng Sáng Tạo ở cách xa
tôi nhưng luôn rất gần … một trí năng góp phần sáng tạo nên các định luật của
vũ trụ."
Allan Sandage
(1926-2010) Nhà thiên văn Hoa Kỳ, người tính toán tốc độ giãn nở của vũ
trụ và tuổi của nó bằng cách quan sát các vì sao xa:
"Thuở thiếu thời tôi
là người vô thần. Khoa học đã đưa tôi đến kết luận rằng thế giới này phức tạp
hơn tôi tưởng. Tôi chỉ có thể giải thích mầu nhiệm hiện hữu bằng cách nại vào
một Đấng Siêu Nhiên”
Tấm danh thiếp và sự ngạc
nhiên:
Một sinh viên trẻ ngồi
cùng toa xe lửa với một ông già đang lần hạt. Anh mạnh dạn bắt chuyện với ông:
“Thay vì lần hạt, tại sao ông không dành thời gian học hỏi và tự đào luyện bản
thân đôi chút nhỉ? Tôi có thể gởi cho ông một cuốn sách hướng dẫn” Ông già đáp:
“Anh làm ơn gởi cuốn sách đến địa chỉ này”, và ông trao cho anh sinh viên tấm
danh thiếp. Tấm danh thiếp ghi là: Luis Pasteur, Viện khoa học Paris. Anh sinh
viên cảm thấy xấu hổ vô cùng. Ạnh định khuyên nhủ một học giả lừng danh nhất
của thời đại mình, nhà sáng chế ra vaccines, được cả thế giới ca tụng và là một
người siêng năng lần hạt
Tác giả Javier
Ordovás
là nhà kinh tế học đã viết
hơn 500 bài báo về các vấn đề Công giáo
Lm. Phaolô Nguyễn Minh
Chính chuyển ngữ
Nhà vật lý nổi tiếng thế giới gây chấn động với phát hiện về sự
hiện hữu của “Đức Chúa Trời”
Oneway.vn – Khi trả lời một câu hỏi về ý nghĩa
của cuộc sống và Chúa, nhà vật lý nổi tiếng thế giới Michio Kaku nói rằng hầu
hết các nhà vật lý thực sự tin vào một Đức Chúa Trời vì cách vũ trụ được thiết
kế. Vũ trụ của chúng ta là một vũ trụ trật tự, xinh đẹp, tinh tế và giản dị.
Ông giải thích rằng vũ trụ không nhất thiết phải tồn tại theo cách này – nó có
thể xấu xí và hỗn loạn. Tóm lại, trật tự chúng ta nhìn thấy trong vũ trụ là một
bằng chứng cho sự tồn tại của Chúa.
Đức Chúa Trời có hiện hữu hay không?
Đó là câu hỏi chúng ta đã cố gắng tìm kiếm câu
trả lời trong suốt hàng ngàn hàng ngàn năm qua.
Trí khôn ngoan thông thường cho rằng phải có cái
gì đó lớn hơn chúng ta và hư vô; không chỉ xuất hiện cách ngẫu nhiên và kỳ
diệu. Phải có người làm ra điều đó. Đúng không?
Vâng, rất nhiều người trên thế giới này tin vào
giả thuyết rằng vào một ngày nào đó trong quá khứ vũ trụ và tất cả mọi thứ khác
chỉ đột nhiên xuất hiện một cách kỳ diệu mà không cần có Chúa.
Một nhà vật lý nổi tiếng thế giới gần đây đã cân
nhắc về vấn đề này và ông nói một điều sẽ thu hút sự chú ý của đám đông những
người vô thần – những người tin vào phép mầu hơn là một Đấng sáng tạo.
Theo tờ Conservative Tribune:
Nhà vật lý lý thuyết Michio Kaku mới đây tuyên
bố rằng ông đã tìm thấy bằng chứng để chứng minh Đức Chúa Trời hiện hữu, và lý
luận của ông đã làm rúng động cả cộng đồng khoa học.
Khi trả lời một câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống
và Chúa, Kaku nói rằng hầu hết các nhà vật lý thực sự tin vào một Đức Chúa Trời
vì cách vũ trụ được thiết kế. Vũ trụ của chúng ta là một vũ trụ trật tự, xinh
đẹp, tinh tế và giản dị.
Ông giải thích rằng vũ trụ không nhất thiết phải
tồn tại theo cách này – nó có thể xấu xí và hỗn loạn. Tóm lại, trật tự chúng ta
nhìn thấy trong vũ trụ là một bằng chứng cho sự tồn tại của Chúa.
“Tôi đã kết luận rằng chúng ta đang ở trong một
thế giới được hình thành theo các quy tắc được tạo ra bởi một trí thông minh”,
nhà vật lý học cho biết, theo tờ Báo cáo Thế giới khoa học. “Hãy tin tôi, tất
cả mọi thứ chúng ta gọi là xác suất ngày nay sẽ không có ý nghĩa gì nữa.
Với tôi nó rõ ràng rằng chúng ta tồn tại trong một kế hoạch được điều khiển bởi
các quy luật đã được tạo ra, và hình thành bởi một trí thông minh phổ quát chứ
không bởi xác suất may rủi. ”
Nhà vật lý giải thích rằng Chúa giống như một
nhà toán học, tương tự như những gì Albert Einstein tin tưởng.
Ý tưởng này không phải là mới đối với Kaku.
Trong một bài báo cho tờ Big Think, ông viết rằng Lý thuyết Dây của mình được
hình thành dựa trên ý tưởng rằng chúng ta đang “đọc tâm trí của Đức Chúa Trời.”
Khá thú vị phải không?
Trong vũ trụ này và trên trái đất này có rất
nhiều bằng chứng cho thấy Đức Chúa Trời hiện hữu.
Nhưng không phải bao giờ chúng ta cũng nghe thấy
điều đó từ góc nhìn khoa học.
Thảo Nguyên
Tổng hợp từ:
Tin liên quan: